Thành phần dân tộc Lịch_sử_Tây_Tạng_(1950–nay)

Vấn đề tỷ lệ dân số người Hán ở Tây Tạng là một vấn đề nhạy cảm về mặt chính trị và gây tranh cãi, liên quan đến Chính phủ lưu vong Tây Tạng, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và phong trào độc lập của Tây Tạng.

Chính phủ lưu vong Tây Tạng nói rằng các chính sách của chính phủ đang Hán hóa Tây Tạng bằng cách khuyến khích sự di cư của những người không phải Tạng, đặc biệt là người Hán và người Hồi, để họ đông hơn người Tạng trong khu vực Tây Tạng [104]. Một số người không phải Tạng di cư đến khu vực này có thể hòa nhập và thích nghi với văn hóa Tạng ở một mức độ nào đó, do tầm quan trọng của nó trong văn hóa địa phương. Nhưng nếu họ mang tới một bản sắc riêng, văn hóa Tạng sẽ có nhiều khả năng trở nên nguy cấp, đặc biệt nếu người Tạng là dân tộc thiểu số. Trung Quốc đưa ra con số người Tạng ở Khu tự trị Tây Tạng là 2,4 triệu người, và 190.000 người không phải là người Tạng, và số lượng người Tạng trong tất cả các thực thể tự trị Tây Tạng cộng lại (nhỏ hơn một chút so với Đại Tây Tạng mà Chính phủ lưu vong Tây Tạng tuyên bố) là 5 triệu, và 2,3 triệu người không phải người Tạng. Trong chính Khu tự trị Tây Tạng, phần lớn dân số Hán sẽ được tìm thấy ở Lhasa [105].

Số liệu thống kê này đang gây tranh cãi chủ yếu dựa trên sự khác biệt giữa khu vực thường được gọi là " Đại Tây Tạng ", trong đó người Tạng là dân tộc thiểu số, với Khu tự trị Tây Tạng, trong đó người Tạng chiếm đa số. Thanh Hải, được tuyên bố chủ quyền bởi chính phủ lưu vong Tây Tạng, được tạo thành từ nhiều nền văn hóa khác nhau từ địa phương đến các vùng khác nhau trong Tỉnh. Văn hóa Tạng là bản địa và tồn tại ở nhiều làng mạc và thị trấn trên khắp Thanh Hải [106].

Một số thị trấn và làng mạc của Tạng nằm ở Ấn Độ và Nepal. Tổng dân số của người Tạng ở Ấn Độ là 94.203 người và ở Nepal là 13.514 người. Một ví dụ về điều này là thành phố Leh trong lãnh thổ Ladakh thuộc liên hiệp Ấn Độ, có dân số 27.513 người. Người dân Leh là người Tạng, nói tiếng Ladakhi, một ngôn ngữ Đông Tạng. Cùng với đó, có một số ngôi làng Tạng ở phía bắc Nepal. Những khu vực này hiện không được Chính phủ lưu vong Tây Tạng tuyên bố chủ quyền [107][108][109].

Tham khảo các số liệu về dân số của Lhasa, Dalai Lama gần đây đã cáo buộc Trung Quốc có "hành vi xâm lược nhân khẩu" trong khi tuyên bố rằng người Tạng đã giảm xuống thành thiểu số chính quê hương của mình [110]. Những người Tạng lưu vong cũng bày tỏ quan ngại rằng tuyến đường sắt Thanh-Tạng (Tây Ninh đến Lhasa) nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho dòng người di cư Trung Quốc [111]. Trung Quốc không công nhận Đại Tây Tạng như tuyên bố của chính phủ Tây Tạng Lưu vong. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng các khu vực dân tộc Tạng bên ngoài Khu tự trị Tây Tạng ngay từ đầu đã không do chính phủ Tây Tạng kiểm soát trước năm 1959, thay vào đó đã được quản lý bởi các tỉnh xung quanh trong nhiều thế kỷ. Và ý tưởng về " Đại Tây Tạng" ban đầu được các đế quốc nước ngoài tạo ra nhằm chia rẽ nội bộ Trung Quốc (Mông Cổ là một tiền lệ nổi bật, giành độc lập với sự hậu thuẫn của Liên Xô và sau đó tự liên kết với Liên Xô) [112].

Chính phủ lưu vong Tây Tạng tranh cãi với hầu hết các số liệu thống kê nhân khẩu học do chính phủ Trung Quốc công bố vì chúng không bao gồm các thành viên của Giải phóng quân đóng ở Tây Tạng, hoặc dân số trôi nổi của những người di cư không được đăng ký, và tuyên bố rằng Trung Quốc đang cố gắng đồng hóa Tây Tạng và thuyên giảm bất kỳ cơ hội độc lập chính trị nào của Tây Tạng [104]. Thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, Jampa Phuntsok, chủ tịch khu tự trị Tây Tạng, đã nói rằng chính phủ trung ương không có chính sách di cư vào Tây Tạng do điều kiện độ cao khắc nghiệt của nó, rằng 6% người Hán trong Khu tự trị Tây Tạng là một nhóm rất linh hoạt, chủ yếu làm kinh doanh hoặc làm việc, và rằng không có vấn đề nhập cư (Báo cáo này bao gồm cả cư trú thường xuyên và tạm thời ở Tây Tạng, nhưng không bao gồm những người Tạng đang học tập hoặc làm việc bên ngoài khu tự trị Tây Tạng) [113]. Theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, đến năm 2006, 3% số người thường trú ở Tây Tạng là người Hán [105]. Khu tự trị Tây Tạng có mật độ dân số thấp nhất trong số các khu vực hành chính cấp tỉnh của Trung Quốc, chủ yếu là do đặc điểm địa lý khắc nghiệt và đồi núi. Tính đến năm 2000, 92,8% dân số là người Tạng, trong khi người Hán chiếm 6,1% dân số. Tại Lhasa, thủ phủ của Khu tự trị Tây Tạng, người Hán chiếm 17%, ít hơn nhiều so với những gì nhiều nhà hoạt động đã tuyên bố. Các chính sách kiểm soát dân số như chính sách một con chỉ áp dụng cho người Hán, không áp dụng cho người thiểu số như người Tây Tạng [114].

Một ngôi nhà truyền thống tại Kham

Xem xét các nguồn khác nhau cho thấy rằng dưới thời Mao Trạch Đông, từ 3% đến 30% người Tây Tạng đã bỏ mạng [115].

Barry Saitman cáo buộc các lực lượng ủng hộ độc lập Tây Tạng muốn bài trừ người Hán, và muốn Dalai Lama liên tục bịa đặt những thông tin về tình hình hiện tại. Vùng nông thôn Tây Tạng, nơi có 3/4 dân số sinh sống, có rất ít người không phải là người Tạng [116].

Sautman cũng tuyên bố:

[Những người định cư] không được nhà nước trợ cấp cá nhân; mặc dù giống như những người Tây Tạng thành thị, họ được trợ cấp gián tiếp bởi sự phát triển cơ sở hạ tầng có lợi cho các thị trấn. Khoảng 85% người Hán di cư đến Tây Tạng để thành lập doanh nghiệp đều thất bại; họ thường rời đi trong vòng hai đến ba năm. Những người sống sót về kinh tế sẽ cạnh tranh với những doanh nhân Tây Tạng địa phương, nhưng một nghiên cứu toàn diện ở Lhasa đã chỉ ra rằng những người không phải là người Tạng đã đi tiên phong trong các lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ mà một số người Tạng sau này đã tham gia và sử dụng kiến thức địa phương của họ để phát triển thịnh vượng.Người Tạng không chỉ đơn giản là tầng lớp dưới; có một tầng lớp trung lưu Tạng đáng kể, dựa vào dịch vụ chính phủ, du lịch, thương mại và sản xuất / vận chuyển quy mô nhỏ. Cũng có rất nhiều người Tạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm, nhưng hầu như không có người Hán thất nghiệp hoặc thiếu việc làm vì những người không tìm được việc làm đều rời đi.

Trong một bài báo của Writenet viết cho Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, Giáo sư Colin Mackerras (sử dụng các cuộc điều tra dân số của Trung Quốc) bày tỏ quan điểm rằng những tuyên bố chẳng hạn như người Trung Quốc đang xâm chiếm người Tạng trên đất nước của họ và 1,2 triệu người Tạng đã chết do sự chiếm đóng của Trung Quốc "cần được đối xử với sự hoài nghi sâu sắc nhất" [117]:

Các số liệu cho thấy kể từ đầu những năm 1960, dân số Tây Tạng đã tăng lên, có thể là lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ. Điều đó cho thấy những cáo buộc của Chính phủ lưu vong Tây Tạng về việc giảm dân số do sự cai trị của Trung Quốc có thể có giá trị nhất định đối với những năm 1950 nhưng đã bị phóng đại quá mức. Tuy nhiên, kể từ những năm 1960, sự cai trị của Trung Quốc đã có tác động làm tăng dân số của người Tây Tạng chứ không giảm đi, phần lớn là do quá trình hiện đại hóa đã cải thiện mức sống và giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, thai sản và các loại khác.

Thống kê theo Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc

Cư dân Đại Tây Tạng theo vùng, báo cáo năm 2000
TổngNgười TạngNgười Hánkhác
Khu tự trị Tây Tạng:2,616,3292,427,16892.8%158,5706.1%30,5911.2%
Lhasa474,499387,12481.6%80,58417.0%6,7911.4%
Qamdo586,152563,83196.2%19,6733.4%2,6480.5%
Sơn Nam318,106305,70996.1%10,9683.4%1,4290.4%
Xigazê634,962618,27097.4%12,5002.0%4,1920.7%
Nagqu366,710357,67397.5%7,5102.0%1,5270.4%
Ngari77,25373,11194.6%3,5434.6%5990.8%
Nyingchi158,647121,45076.6%23,79215.0%13,4058.4%
Tỉnh Thanh Hải:4,822,9631,086,59222.5%2,606,05054.0%1,130,32123.4%
Tây Ninh1,849,71396,0915.2%1,375,01374.3%378,60920.5%
Hải Đông1,391,565128,0259.2%783,89356.3%479,64734.5%
Hải Bắc258,92262,52024.1%94,84136.6%101,56139.2%
Hoàng nam214,642142,36066.3%16,1947.5%56,08826.1%
Hải Nam375,426235,66362.8%105,33728.1%34,4269.2%
Golog137,940126,39591.6%9,0966.6%2,4491.8%
Ngọc Thụ262,661255,16797.1%5,9702.3%1,5240.6%
Hải Tây332,09440,37112.2%215,70665.0%76,01722.9%
Các khu vực Tạng tại tỉnh Tứ Xuyên
Ngawa847,468455,23853.7%209,27024.7%182,96021.6%
Garzê897,239703,16878.4%163,64818.2%30,4233.4%
Mộc Lý124,46260,67948.8%27,19921.9%36,58429.4%
Các khu vực Tạng tại tỉnh Vân Nam
Địch Khánh353,518117,09933.1%57,92816.4%178,49150.5%
Các khu vực Tạng tại tỉnh Cam Túc
Cam Nam640,106329,27851.4%267,26041.8%43,5686.8%
Thiên Chúc221,34766,12529.9%139,19062.9%16,0327.2%
Tổng trên toàn Đại Tây Tạng:
Bao gồm Tây Ninh và Hải Đông10,523,4325,245,34749.8%3,629,11534.5%1,648,97015.7%
Không bao gồm Tây Ninh và Hải Đông7,282,1545,021,23169.0%1,470,20920.2%790,71410.9%

Bảng này [118] bao gồm tất cả các thực thể tự trị của Tây Tạng ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cộng với Tây Ninh và Hải Đông. Hai bảng sau được đưa vào để hoàn thành các số liệu cho tỉnh Thanh Hải, và cũng vì chúng được tuyên bố là một phần của Đại Tây Tạng bởi Chính phủ Tây Tạng lưu vong.

Không bao gồm các thành viên của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc tại ngũ.

Người Hán định cư ở các thành phố đã tăng đều đặn kể từ đó. Nhưng một phân tích sơ bộ của cuộc tổng điều tra dân số nhỏ năm 2005 chỉ cho thấy dân số Hán ở Khu tự trị Tây Tạng tăng nhẹ từ năm 2000–2005 và ít thay đổi ở miền đông Tây Tạng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Tây_Tạng_(1950–nay) http://news.sina.com.cn/c/2003-08-27/1644645902s.s... http://www.stats.gov.cn/tjsj/ndsj/2007/html/B0209C... http://www.gov.cn/banshi/2005-08/21/content_25059.... http://www.china.org.cn/e-white/20011108/3.htm http://chinhdangvu.blogspot.com/2008/08/revolt-of-... http://users.erols.com/mwhite28/warstat1.htm#Mao http://www.hartford-hwp.com/archives/55/783.html http://info-buddhism.com/the_tibetans_robert_barne... http://hansard.millbanksystems.com/commons/1950/ju... http://www.phayul.com/news/article.aspx?id=18451&t...